Xem Sơ đồ tư duy bài Làng (Kim Lân) (năm 2022) dễ nhớ – Ngữ văn lớp 9 2024
Tailieumoi.nước ta xin ra mắt đến các quý thầy cô, các em bọn chúng tac sinh lớp 9 tài liệu sơ đồ tư duy bài Làng hay nhất, gồm 9 trang đầy đủ các nét chính về văn bản như:
các content được Giáo viên lâu đời kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp chúng tac sinh dễ dãi hệ thống hóa kiến thức và kiến thức từ đó thuận tiện nắm rõ được content tác phẩm Làng Ngữ văn lớp 9.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Làng dễ nhớ, ngắn nhất – Ngữ văn lớp 9:
LÀNG
Bài giảng: Làng
Bạn đang đọc: Sơ đồ tư duy bài Làng (Kim Lân) (năm 2022) dễ nhớ – Ngữ văn lớp 9
A. Sơ đồ tư duy Làng
B. đào bới Làng
I. Tác giả
– Kim Lân ( 1920 – 2007 ) tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn – tỉnh TP Bắc Ninh .
– Ông là một trong các những các những các những những số trong nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân .
– Tác phẩm chính : Nên vợ nên ông xã ( tập truyện ngắn, 1955 ), Con chó xấu xí ( tập truyện ngắn, 1962 ) .
– Năm 2001, Kim Lân được khuyễn mãi giảm giá ngay Ngay Ngay phần thưởng Nhà nước về văn bọn chúng tac thẩm mỹ và thẩm mỹ và thẩm mỹ và thẩm mỹ và thẩm mỹ và thẩm mỹ và thẩm mỹ và thẩm mỹ và thẩm mỹ và thẩm mỹ .
– đẳng cấp thẩm mỹ : Kim Lân có 1 lối viết rất bỗng nhiên và thoải mái và thoải mái và thoải mái và thoải mái, lừ đừ, nhẹ dịu, hóm hỉnh và giàu cảm xúc ; cách miêu tả rất thân thiện và gần gũi, chân thật. Đặc biệt ông có biệt tài nghiên cứu và nghiên cứu tâm lí hero .
II. tìm hiểu chung tác phẩm
1. thể loại : Truyện ngắn
2. yếu tố tình hình sáng tác
Truyện ngắn Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên Tạp chí văn nghệ năm 1948 .
3. Tóm tắt truyện :
Truyện kể về ông Hai rất yêu làng, yêu nước. Khi Pháp quay quay về xâm lược, ông phải rời làng đi tản cư nên rất nhớ rằngng, vì thế ông thường ra phòng thông báo đến nghe tin tức kháng chiến. Ở khu tán cư, ông nghe được tin làng Chợ Dầu là làng Việt gian theo Tây. Ông rất bàng hoàng, xấu hổ, băn khoăn lo âu sợ tin này loan ra thì người dân làng Dầu ở đây biết sống như ra làm sao. Suốt mấy ngày trời ông chẳng dám đi đâu. Rồi tin này ai cũng biết. Nhà ông và các người dân làng Dầu đều bị xa lánh và khinh bỉ. Trong hiện trạng bế tắc, vô vọng đó ông dù yêu làng nhưng vẫn không ưng ý với hành động theo Tây của làng. Ông vẫn quyết giữ trọn lòng trung thành với chủ với Cách mạng, với kháng chiến và ông chỉ biết tâm sự điều đó với đàn ông của chính bản thân mình. ở đầu cuối, ông quản trị xã của làng Chợ Dầu lên khu tản cư để cải chính tin làng Dầu theo Tây. Ông rất vui đi khoe tin với toàn bộ mọi cá nhân. Ông nhủ lòng càng phải yêu làng, yêu nước không dừng lại ở đó .
4. Bố cục : 3 phần
– Phần 1: (từ đầu đến… múa cả lên vui quá): Tâm trạng của ông Hai trước khi nghe đến tin làng chợ Dầu theo giặc.
– Phần 2: (tiếp liền… đôi phần): Tâm trạng ông Hai khi nghe đến tới tin làng theo giặc.
– Phần 3 : ( còn lại ) : Tâm trạng ông Hai mặc nghe tin cải chính .
5. Giá trị nội dung
Tác phẩm đề cập tới tình yêu làng quê và lòng yêu nước cùng ý thức kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang giới thiệu được biểu lộ 1 cách chân thật, sâu sắc và cảm động ở anh hùng ông Hai .
6. Giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ
Tác giả đã rất thắng lợi giỏi trong các công việc tạo dựng tình huống thắt nút và cởi nút câu truyện rất bỗng nhiên và nghệ thuật và thẩm mỹ miêu tả tâm lí anh hùng qua hành động tâm lý và khẩu ca, từ đó tạo nên được một tác phẩm tuyệt vời nhất .
III. Dàn ý nghiên cứu tác phẩm
1. hoàn cảnh đặc biệt của ông Hai
– Xuất thân là một trong các những trong trong trong người nông dân quanh năm gắn bó với bầyy tre làng .
– Một người yêu làng nhưng phải rời làng đi tản cư .
2. cốt truyện tâm trạng của anh hùng ông Hai
a. Người nông dân mang tình yêu làng tha thiết
– Ông tự hào, hãnh diện về làng và kể nó với niềm mê hồn, náo nức đến lạ lùng :
+ Trước cách mạng tháng tám : Ông khoe con đường làng lát toàn đá xanh, trời mưa đi chẳng lấm chân ; ông khoe sinh phần của một vị quan tổng đốc trong làng .
+ Khi kháng chiến bùng nổ : Ông khoe về 1 làng quê đi theo kháng chiến làm cách mạng ; ông kể 1 cách rành rọt các hộ, các ụ, các giao thông vận tải hầm hào, ….
– Khi buộc ông phải tảm cư, ông Hai đã rất nhớ về làng :
+ Ông liên tiếp chạy sang nhà bác Thứ để kể lể đủ thứ chuyện về làng, để vơi đi cái nỗi hãy nhờ rằngng .
+ Ông kể cho sướng cái miệng, cho vơi cái lòng mà hoàn toàn không cần biết người nghe có thích hay là không .
+ Ông liên tiếp sau dõi thực trạng của làng cũng như tình hình chiến sự .
b. lúc nghe đến tới đến tới tin làng chợ Dầu theo giặc :
– lúc đầu, ông chết lặng vì đau đớn, tủi hổ như không hề điều khiển và điều khiển và tinh chỉnh được cơ thể của chính bản thân mình : “ Có ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như nghẹt thở ” .
– Cái tin ấy quá giật mình và khi trấn tĩnh lại, ông còn cố không tín nhiệm vào cái tin dữ ấy. Nhưng rồi các người đi tản cư kể rành rọt quá, lại chứng minh và cam kết họ “ vừa ở bên dưới ấy lên ”, “ mắt thấy tai nghe ”, làm ông không hề hoài nghi .
– Sau tích tắc ấy, tổng thể có vẻ như sụp đổ, tâm lý ông bị ám ảnh, lo sợ, day kết thúc : Ông vờ lảng ra chỗ khác, rồi về thẳng nhà. Nghe tiếng chửi lũ Việt gian, ông “ cúi gằm mặt mà đi ” .
– Về đến nhà ông nằm vật ra giường, nhìn lũ con, tủi thân mà “ nước mắt ông cứ tràn ra ” .
– Muôn vàn nỗi lo ùa về trông tâm lý ông :
+ Ông lo cho số phận của không ít đứa con rồi sẽ bị khinh bỉ, hắt hủi vì là con nít làng Việt gian : “ Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư ? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu ” .
+ Ông lo cho bao nhiêu người tản cư làng ông sẽ bị khinh, tẩy chay, thù hằn, ghê tởm : “ Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian ! … Suốt cái nước việt nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước … ” .
+ Ông lo cho tương lai của mái ấm mái ấm mái ấm mái ấm gia đình rồi sẽ đi đâu, về đâu, làm ăn sinh sống ra sao : “ Rồi đây biết làm ăn, kinh doanh làm như ra làm sao ? Ai người ta chứa ” .
– Trong trạng thái rủi ro cục bộ, tức giận ông nắm chặt hai tay mà rít : “ chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm gìống Việt gian bán nước để rồi nhục nhã thế này ”. tinh thần bị phảm bội, các mối hoài nghi bùng lên và giằng xé trong ông : “ ông kiểm điểm từng người trong óc ” .
– Mấy ngày sau đó, ông hoang mang băn khoăn khiếp sợ, run sợ khi phải đối lập với đời sống xung quanh : Ông không có gan đi đâu, chỉ quẩn quanh ở nhà và nghe ngóng tình hình ngoài. Ông không có gan chuyện trò với vợ, hay ông không có gan nhìn thẳng vào trong thực tiễn phũ phàng đang làm ông đớn đau .
– Tình yêu làng quê và tinh thần cậy nước đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai :
+ Ông thoáng có ý nghĩ “ hay là quay trở lại làng ” – rồi ông lại gạt bỏ ý nghĩ về làng bởi “ làng đã theo Tây, về làng là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu quay trở lại kiếp sống nô lệ ” .
+ Buộc phải lựa chọn 1, ông đã tự xác lập 1 cách đau đớn nhưng hoàn thành khoát “ Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù ”. Nhưng dù đã chấm dứt khoát như thế, ông vẫn không hề dứt xuôi bỏ cảm tình với nơi mà ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó đến gần hết cuộc sống đời thường đời thường thường ngày. thế cho nên, ông muốn được tâm sự, như để phân bua, để minh oan, cởi bỏ nỗi lòng .
+ Ông rút hết nỗi lòng vào các lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con ngây thơ, bé nhỏ .
⇒ Dưới hiệ tượng truyện trò, tâm sự với đứa con, nhưng thực ra là lời tự vấn, để tự minh oan và cam kết bền chắc tấm lòng thủy chung của chính mình với làng, kháng chiến, cách mạng ; để làm vơi đi phần nào các khổ tâm đã dằn vặt ông lâu nay nay .
3. Tâm trạng ông Hai mặc nghe tin cải chính.
– Thái độ ông Hai đổi khác hẳn :
+ “ cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng vui vẻ, rạng rỡ hẳn lên ” .
+ Mồm bỏm bẻm nhai trầu, mắt hấp háy .
+ Chạy đi khoe khắp nơi về làng của chính mình .
⇒ sung sướng tột độ, tự hào, hãnh diện khi làng không theo giặc, cũng đồng thời thấy được tình yêu làng, yêu nước của người nông dân như ông Hai.
nội dung bài viết liên quan: Siêu Thị Khóa Cửa Điện Tử Chính Hãng – Mia Lock nước ta
IV. Bài nghiên cứu
Với người nông dân nước ta, chắc hẳn không có thứ cảm tình nào tự nhiên hân huệ yêu giang sơn. Tình yêu ấy nhẹ dịu thấm vào máu thịt qua cảm tình giành cho các người thân trong gia đình, làng xóm, quê nhà. Nó tưởng như xa xôi nhưng lại thật thân thiện, đơn giản và giản dị. hiểu rõ sâu xa các điều đó, nhà văn Kim Lân đã có một thiên truyện thật hay viết về tình yêu quê nhà giang sơn của người nông dân : “ Làng ”. diễn biến tâm trạng anh hùng chính của tác phẩm – hero ông Hai là một trong các những những số chiến thắng tốt lớn của tác giả khi viết về đề tài yêu nước .
Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng Chợ Dầu, ông nói 1 cách say sưa mà hoàn toàn không cần biết người nghe có chú ý âu yếm hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, mờ mịt và sầm uất và đen tối, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc giỏi hạng sang, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc lạ, có bề dày lịch sử dân tộc. Nhưng khi cách mạng thắng lợi tốt, nó đã giúp ông hiểu được sự sai trái đáng tiếc của chính bản thân mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về các ngày khởi nghĩa dồn dập các buổi tập quân sự chiến lược có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả các hố, các ụ, các hào, … lắm khu dự án công trình không để đâu hết. Chính cái tình huống chặt chẽ khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông đưa đi toàn bộ nỗi niềm thương nhớ. vì thế, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day xong khôn nguôi. Quả thật, cuộc sống và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi “ chôn rau cắt rốn ” của bản thân biến thành một cổ điển cuội nguồn và tâm lí chung của mỗi cá nhân nông dân thời bây giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn thuần : cây đa, giếng nước, sân đình … và cải tiến lên đó chính là : tình yêu non sông. tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua : lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu vương quốc .
Tình yêu làng của ông Hai càng được biểu lộ rõ qua các ngày ông đi tản cư. Ông luôn luôn nhớ về làng các ngày ở vùng tản cư, ông yêu làng, yêu đường làng, ngõ xóm, yêu nhà ngói, sân gạch. Ông yêu toàn bộ các gì thân thiết, độc lạ của làng. Ông yêu các giờ phút sự sung sướng được cùng bạn bè đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Từ tình yêu làng nồng cháy ấy, cổ xưa cuội nguồn ấy, ông đến với cách mạng từ bao giờ, từ khi nào mà chính ông cũng không hay biết. Ông nhập cuộc tản cư vì tản cư cũng là tham gia kháng chiến. Ở vùng tản cư, ông luôn dõi theo tin tức của làng, ông hay đến phòng thông báo nghe đọc báo. Hôm ấy, ông nghe được bao nhiêu là tin hay : “ Một em nhỏ xung phong bơi ra giữa Hồ Gươm cắm quốc kì lên Tháp Rùa ”, “ Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng ” ; “ Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi đặt đơn hàng đã bắt được một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. Chao ôi ! Bao nhiêu là tin hay, ruột gan ông lão cứ náo nức cả lên ”. Đến đâu, ông cũng thấy hãnh diện, ông hay khoe về làng, về tinh thần kháng chiến của làng. Sau Cách mạng, ông khoe về làng cũng khác, ông không thể tự hào vì cái sinh phần cụ Thượng nữa mà thấy thù nó. Cách mạng tháng Tám chiến thắng tốt đã đưa đến cho người nông dân các nhận thức mới, tâm lý mới về làng. Họ đã biết nhận thức được rằng cái gì đúng, cái gì sai .
thế nhưng, nụ cười còn chưa kịp bày tỏ thì một cú sốc lớn đã đến với ông Hai : đó là cái tin làng Chợ Dầu là Việt gian theo Tây. nói cách khác rằng, dưới ảnh hưởng ảnh hưởng của tình huống, vấn đề lúc nghe tới tin làng Chợ Dầu theo giặc, tâm ý anh hùng ông Hai đã có các cốt truyện phức hợp và nhà văn đã trực tiếp nhập vai vào anh hùng để nói bằng khẩu ca hero, biểu đạt sự giằng xé trong quốc tế nội tâm với các mâu thuẫn, xung đột lạnh ngắt, kinh hoàng. Cũng như biết bao người dân quê khác, ông Hai gắn bó sâu lặng với nơi chôn rau cắt rốn của bản thân – làng chợ Dầu. Tình yêu ấy của ông thật đặc biệt đặc biệt đặc trưng, bộc lộ của nét tâm lí đó là luôn tự hào và thích khoe về làng. Nhưng có một event giật mình đã xảy ra với ông, từ phòng thông tin bước ra đang rất phấn khởi, náo nức vì các tin vui của kháng chiến, chạm mặt người tản cư, nghe họ nhắc tới tên làng, ông Hai quay lại, lắp bắp hỏi, hi vọng được nghe các tin giỏi đẹp về làng, nào ngờ lại hay tin : cả làng chợ Dầu theo giặc. Trước tin dữ ấy, ông Hai sững sờ chết lặng “ Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được ”. Từ nụ cười, ý thức hi vọng, ông Hai rơi xuống vực thẳm đau buồn, xót xa, vô vọng. Ông cố gắng cố gắng trấn tĩnh bản thân và tìm cách lảng ra về, muốn che giấu đi tâm trạng ấy nhưng nỗi tủi hổ, bẽ bàng, lo âu khiến cho ông “ cúi gằm mặt mà đi ”, còn văng vẳng tiếng chửi “ giống Việt gian bán nước ”. Lòng ông lão như bị giằng xé, có cái gì như đang bóp nghẹt quả tim ông khiến ông khó thở, đau đớn tột cùng. Rồi ông lại tự mình truyện trò với mình, lúc thì ông bảo chưa phải và lấy cớ để thanh minh cho chuyện ấy. Rồi ông lại thấy điều đó là thực sự thì tương thích hơn : “ Không có lửa làm thế nào có khói. Ai hơi đâu người ta bịa tạo nên các chuyện ấy làm gì ? Chao ôi ! Cực nhục chưa ? Khắp cái nước nước ta này người ta ghê tởm cái giống Việt gian bán nước … ”. Rồi lòng ông lại quặn đau, nội tâm ông luôn luôn đổi khác, luôn có hai quan điểm trái chiều nhau. Rồi ông lại chuyện trò với đứa con út để vơi đi đôi phần, ông hỏi đứa con ông ủng hộ làng hay Cụ Hồ, nghe nó ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh, lòng ông như được vun đắp phần nào, càng vững trí hơn. Cái lòng bố con ông như thế đấy, đâu dám đơn sai : “ các chiến sỹ biết cho bố con ông, Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông ”. Ông rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan khi biết ở vùng tản cư không ai chứa các người làng Chợ Dầu nữa để đi đến một đưa đưa ra quyết định hành động cao đẹp. “ Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù ”. Đó là một trong những trong các trong hành vi cao đẹp của ông Hai – một người dân yêu nước. ở đầu cuối, ông đã chọn đi theo Cụ Hồ theo lí tưởng cách mạng, ở đây ta thấy được sự hòa quyện giữa tình yêu làng với tình yêu nước. Đó là bước chuyển biến mới trong tâm địa lý tình cảm của người nông dân nước ta buổi giao thời mới – cũ .
Và rồi tin làng ông Việt gian theo Tây đã được cải chính, ông lại rơi đúng sự hả hê vui mắt, niềm hạnh phúc vô bờ. Ông lại được khoe về làng, được tự hào về làng thậm chí còn ông khoe cả cái nhà ông bị Tây đốt cháy, ông kể tỉ mỉ, cụ thể cho bác Thứ nghe về đại chiến hôm Tây chúng vào khủng bố, chúng nó cả bao nhiêu thằng tất cả bọn họ đánh được bao nhiêu, làng ông chống đỡ, phòng ngự như thế nào, như chính ông lão vừa dự trận đánh vậy. Đến đây, ta thấy được nội tâm, tâm trạng ông Hai đã có sự đổi khác rõ nét, từ tình huống biến đổi mà con người cũng biến đổi, sự đau đớn tột cùng giờ đã chuyển hẳn qua hả hê vui lòng. Qua đây ta thấy được tầm đặc biệt của nghệ thuật và thẩm mỹ thiết kế thiết kế tình, huống truyện và miêu tả nội tâm anh hùng đối với 1 tác phẩm văn chúng tac .
Bằng sự am hiểu sâu sắc về đời sống ý thức của rất nhiều người nông dân cùng theo với tài năng nghệ thuật và thẩm mỹ tốt, nhà văn Kim Lân trong truyện ngắn Làng đã thiết kế xây cất thắng lợi giỏi tình huống truyện mang tính thử thách, qua đó tình cảm của người nông dân với nước nhà, với cách mạng được thể hiện rõ ràng hơn khi nào hết. thông qua việc thiết kế xây cất hero ông Hai, tác giả Kim Lân đã miêu tả chân thực sự chuyển biến trong tình cảm của người nông dân, đồng thời truyện ngắn cũng giúp tất cả họ hình dung được một thời kì cách mạng sôi nổi của quân dân ta, trong đó toàn thể dân tộc bản địa đều nhất trí, đồng lòng đoàn kết, đi theo sự dẫn dắt, chỉ đạo của Đảng, của Bác Hồ .
V. Một số lời bình về tác phẩm
1. Đó là anh hùng lão Hai, người nông dân bần hàn ấy có các nét rất mới không giống bất kể người nông dân nào một vài truyện ngắn truyện dài trước kia. Đó là kẻ nông dân vừa được cách mạng giải phóng. Cách mạng đã đem lại quyền sống, quyền làm người, quyền chủ quyền, bình đẳng với mỗi người. không có thấy gì còn bóng hình lũ cường hào, ác bá nào trong tâm lý lão. Không còn bóng hình thấp hèn, cắn răng cam chịu trước các bất công, tàn nhẫn đã vùi dập người nông dân trước kia. Trong truyên “ Làng ” lão Hai là 1 trong số trong số người nông dân hồ hởi, phấn khởi, tự tin, tự biết vị trí mình, nghĩa vụ và trọng trách mình trong mọi việc làm của xóm làng, của giang sơn. Lão là nông dân đi đầu âu yếm đến thời sự, chính trị, đến các tin tức có đối sánh đến thời vận của giang sơn, người mà dường như không ngày nào không ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức và mừng húm khoe với mỗi cá nhân rằng “ chuyến này Đác-giăng-li-ơ còn là phải đi đi về về ạ … ”. Phải nói đây là một trong trong chuyển biến rất quan trọng về con người nông dân sau Cách mạng .
( Theo Kim Lân, Nghĩ về nghề văn, Hà Minh Đức ghi, trong Nhà văn nói về tác phẩm )
Sơ đồ tư duy nghiên cứu và nghiên cứu truyện ngắn Làng
Dàn ý chi tiết nghiên cứu và nghiên cứu truyện ngắn Làng
1. Mở bài: giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
– Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với các truyện ngắn danh tiếng về sắc đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc, gắn bó với thôn quê, từ khóa lâu đã am hiểu người nông dân .
– Làng ( 1948 ) đã bộc lộ chiến thắng giỏi vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân nước ta với làng, với nước Một Một giữa các ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp .
2. Thân bài
* Khái quát về tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác : Truyện ngắn “ Làng ” được viết năm 1948 – thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp .
– Nội dung tình tiết : Ông Hai là 1 trong các mỗi người rất chi là yêu quý làng quê mình cho nên vì thế khi Pháp đến đánh chiếm ông quyết định hành động ở lại làng làm du kích, làm người trẻ tuổi chống giặc dù tuổi đã cao. Nhưng vì hiện trạng mái ấm gia đình ông buộc phải tản cư lên thị xã Hiệp Hòa. Thế rồi một hôm ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, khi đó ông đã rất chi là đau khổ. Nhưng cho đến khi nghe tin cải chính về làng ông vui sướng đến mức đi khoe nhà ông bị đốt hết trong niềm tự hào .
* vấn đề 1: nghiên cứu và nghiên cứu và phân tích trường hợp truyện
– trường hợp : Ông Hai luôn yêu và tự hào về làng của chính mình, nay nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
– tình huống đối nghịch với tình cảm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông Hai, khác với tâm lý về 1 làng quê “ tinh thần cách mạng lắm ” của ông .
– Ý nghĩa của trường hợp : Tình huống khiến tình tiết tâm trạng anh hùng đổi khác dũng mãnh và mạnh mẽ, thử thách lòng yêu làng và yêu nước của anh hùng ông Hai .
* vấn đề 2: Tình yêu làng, yêu nước ở anh hùng ông Hai
– Tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng
+ Ông khoe về làng : giàu và đẹp, lát đá xanh, có nhà ngói san sát mờ mịt như tỉnh, phong trào cách mạng ra mắt sôi sục, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre …
+ Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho đến cái sinh phần của tổng đốc làng ông, vinh dự vì làng có bề dày lịch sử dân tộc .
– Tình yêu làng của ông Hai sau Cách mạng .
+ Ông khoe về ý thức cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập, ông khoe những hố, ụ và hào .
– diễn biến tâm trạng ông Hai :
+ Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc .
+ Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc .
+ Khi biết tin làng chợ Dầu theo Tây được cải chính .
– Đặc sắc nghệ thuật và thẩm mỹ :
+ Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ và lời ăn khẩu ca của người nông dân
+ khẩu ca trần thuật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu theo lời hero ông Hai ( ngôi thứ 3 )
+ Ngôn ngữ hero của ông Hai vừa mang nét chung của người nông dân nhưng cũng đưa điểm riêng lẻ đậm đậm đậm chất cá tính của anh hùng nên rất sinh động
+ Giọng điệu trần thuật tự nhiên thân thiện đôi lúc dí dỏm của anh hùng .
+ Miêu tả rất đơn cử, quyến rũ những diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn từ đối thoại và độc thoại .
3. Kết bài
– Tác giả chiến thắng giỏi trong số công việc thiết kế kiến tạo trường hợp truyện, trong nghệ thuật miêu tả tâm ý nhân vật và ngôn từ nhân vật .
– Những rực rỡ về nghệ thuật và thẩm mỹ đóng đóng góp phần biểu lộ tâm lý của tác phẩm : tình yêu làng, lòng yêu nước, niềm tin kháng chiến của người nông dân trong hoàn cảnh tản cư .
– cam kết Kim Lân là cây bút truyện ngắn tốt và có sức lay động tới trái tim người đọc .
Bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Làng – mẫu 1
Kim Lân là nhà văn tiến bộ việt nam. Ông có một vốn sống vô cùng sâu sắc về nông thôn nước ta. Những thú chơi dân dã mang cốt cách ” phong phú đồng ruộng ” như thả diều, chọi gà, nuôi chó săn, thả chim bồ câu, chơi núi non bộ, gánh hát chèo, trẩy hội mùa xuân, v.v… được ông viết rất hay và cho ta nhiều thú vị. Ông là 1 trong mỗi trong số cây bút truyện ngắn giỏi mang hương đồng gió nội qua 2 tác phẩm : Con chó xấu xí và Nên vợ nên ông xã. Viết về đề tài nông dân và kháng chiến, truyện Làng của Kim Lân chiến thắng xuất sắc hơn cả. Nhân vật chính của truyện là ông Hai đã để lại trong tâm địa địa em nhiều ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ. Ông Hai là một trong lão nông, cần mẫn chất phác, giàu lòng yêu quê nhà giang sơn. Ông gắn bó với cách mạng, quyết tâm đi theo kháng chiến, trung thành với chủ tuyệt vời và hoàn hảo nhất vào sự chỉ đạo sáng suốt của Cụ Hồ Chí Minh. Cũng như hàng triệu người nông dân khác, ông Hai là một con người chịu khó chất phác rất đáng yêu. Ông hay lam hay làm ” ở quê ông làm suốt cả ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay “. Đi cày, đi cuốc, gánh phân, tát nước, đan rổ, đan rá, … ông đều làm khéo, làm giỏi .
Ông Hai đã sống qua hai cơ chế, trước kia ông mù chữ, sau nhờ cách mạng mà ông được chúng tac ” tầm trung bình chúng tac vụ “, biết đánh vần. Kim Lân đã kể rất hay về tình yêu làng của ông Hai. ” Làng ta cảnh sắc hữu tình ” … không yêu làng sao được ? Cái làng Chợ Dầu vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của ông, ” nhà ngói san sát, sầm uất và mờ mịt như tỉnh “, ” đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió … bùn không dính đến gót chân ” … Trước kia, ông Hai rất lấy làm tự hào về cái sinh phần quan tổng đốc làng ông. Đi đâu ông cũng khoe, chạm chán ai ông cũng khoe ” cái dinh cơ cụ thượng làng tôi có lăm lắm là của. Vườn hoa hoa lá cây cảnh nom như động ấy … “. Ông yêu làng Chợ Dầu với tổng thể sự hồn nhiên, ngây thơ của người ít bọn bọn bọn bọn bọn bọn bọn bọn bọn chúng tac. Ông đã mang thương tật trên mình khi bị bắt làm phu xây cái lăng ấy ! Đáng lẽ ông đừng nên khoe, đừng nên ” hả hê cả lòng “. Nỗi đau, nỗi nhục của một đời người nói làm gì nữa cho góp thêm phần nhục nhã ? Nhắc lại chuyện xưa, cũ ấy của ông Hai, Kim Lân đã viết với cùng 1 giọng văn châm biếm nhẹ nhàng. từ ngày cách mạng thắng lợi xuất sắc, ông Hai vẫn yêu làng, yêu với tổng thể tình cảm trong sạch, chân thành. Ông đã có không hề ít đổi khác về mặt nhận thức. Ông không khi nào còn ” đả động ” đến ” cái sinh phần ” ấy nữa, ông biết ” thù nó ” đến tận tim gan. Ông yêu cái làng Chợ Dầu kháng chiến với tổng thể niềm kiêu hãnh cao quý ! Cái làng Chợ Dầu của ông ” mà cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng thoải mái nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy “. Ông khoe làng mình ” những ngày khởi nghĩa rầm rập “, những cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vác gậy đi tập quân sự chiến lược, ” nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì lắm khu công trình không để đâu hết ! ” .
Có thể nói, từ ngày đi tản cư, phải xa làng thân yêu, bao nỗi buồn vui của quá khứ và hiện tại chứa chất trong lòng ông bao tâm sự. Dưới ngòi bút của Kim Lân, ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước, hiền khô, chất phác … hiện lên 1 cách chân thực, ta thấy thân mật, bình dị và đáng yêu lắm. Tình yêu làng, tình yêu quê nhà là một trong số tình cảm sâu sắc nhất của người dân cày Nước Ta. Quyết tâm kháng chiến, an toàn và đáng tin cậy vào sự chỉ huy sáng suốt của Hồ quản trị cũng là một trong nét rất đẹp trong tư tưởng, tình cảm của ông Hai. Kháng chiến thì khắp nơi ” Ruộng rẫy là mặt trận. Cuốc cày là vũ khí. Nhà nông là chiến sỹ “. Vợ con đi tản cư, nhưng ông Hai vẫn ở lại cùng với đội du kích ” đi đào đường, đắp ụ ” để bảo vệ cái làng Chợ Dầu thân yêu. Khi thực trạng mái ấm gia đình neo bấn, vợ con thúc hách, cực chẳng đã phải xa quê nhà, ông tự an ủi mình : ” Thôi thì chẳng ở lại làng cùng bạn bè được thì tản cư âu cũng là kháng chiến ! “. Xa làng rồi đừng quênng, tính nết ông Hai có phần đổi mới. Ông ít nói ít cười, lầm lầm lì lì, thậm chí còn cáu gắt, chửi bới vợ con. Ồng vô cùng đau khổ : ” Chúng mày làm khổ ông ! Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ ! Ông thì giết hết, ông thì giết hết ! “. bọn họ cảm thông với ” tâm sự ” u uẩn của ông, thương ông lắm ! trong lúc ông Hai đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương gan dạ anh hùng của quân và dân ta thì ông như bị sét đánh về cái án ” dữ ” cả làng Chợ Dầu ” Việt gian theo Tây “, .., ” vác cờ thần ra hoan hô ” lũ giặc cướp ! ông tủi nhục cúi gằm mặt mà đi, nằm vật ra giường như bị ốm nặng, nước mắt cứ tràn ra, có lúc ông chửi thề 1 cách chua chát ! Ông sống trong bi kịch triền miên .
Vợ con vừa buồn vừa sợ. ” Gian nhà lặng đi, hiu hắt “. Ông sợ mụ chủ nhà … có lúc ông nghĩ quẩn ” hay ta quay về làng ” … nhưng rồi ông lại nhất quyết : ” Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù !. Kim Lân rất sâu sắc và tinh xảo miêu tả những biến thái vui, buồn, lo, sợ … của người nông dân về cái làng quê của bản thân. Họ đã yêu làng trong tình yêu nước, đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng. Đó là một bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá và sâu sắc của ông Hai đem đến cho mỗi tất cả bọn họ ! Cuộc đối thoại giữa hai bố con ông Hai là một diễn biến cảm động và mê hoặc :
… – ” À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai ? ”
– ” Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm ! ”
Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt ông chảy ròng ròng trên hai má … Lòng trung thành với chủ của cha con ông, của hàng triệu nông dân Nước Ta đối với lãnh tụ là vô cùng thâm thúy, kiên trì, vẻ đẹp tâm hồn ấy của họ rất đáng tự hào, mệnh danh. Vì thế, khi cái tin thất thiệt ” cả cái làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây ” được cải chính thì ông Hai là người vui vẻ nhất. Ông ” vui mắt, rạng rỡ hẳn lên “, ” mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ … “. Ông mua quà cho con. Ông chạy sang nhà bác Thứ để ” khoe ” cái tin làng Chợ Dầu đánh giặc, nhà ông bị Tây đốt. Tự hào lắm chứ ! Người đọc như được san sẻ thú vui sướng cùng ông. Gấp trang sách lại, tất cả bọn họ bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật và thẩm mỹ kể chuyện tạo trường hợp mê hoặc, bối rối của nhà văn Kim Lân .
Những phẩm chất tốt đẹp của ông Hai như cần cù lao động, chất phác, yêu quê nhà giang sơn … tiêu biểu vượt trội cho bản chất cao quý, trong sạch của người dân cày Nước Ta. Chính họ đã đổ mồ hôi tạo ra sự những bát cơm đầy dẻo thơm nuôi sống mọi người. Chính họ đã đem xương máu, đánh giặc ” giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín ” … ( Thép Mới ). ” quê nhà là chùm khế ngọt … ” là niềm vui, nỗi buồn, là tham vọng đẹp của mỗi tất cả những bạn. Quê hương đang thay đổi ” ngói hóa “, no ấm, phong phú trong thanh bình. Bài học thâm thúy nhất so với em khi đọc truyện ngắn này của Kim Lân là tình yêu quê nhà giang sơn, từ lòng tự hào và biết ơn người dân cày Nước Ta .
Bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Làng – mẫu 2
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông đã có sáng tác đăng báo từ trước cách mạng tháng 8. Là nhà văn am hiểu thâm thúy, gắn bó với nông dân và nông thôn, Kim Lân phần lớn chỉ viết về hoạt động nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn Làng là trong số những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp ( 1948 ). Đây là một tác phẩm độc lạ viết về lòng yêu nước của ông Hai Tu, lòng yêu nước này nguồn gốc từ tình yêu quê nhà, yêu làng thâm thúy của ông. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành thịnh hành ở mọi người nông dân việt nam ta giữa những ngày đầu chống Pháp. Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà hoàn toàn không cần biết người nghe có âu yếm hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt hạng sang, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc lạ, có bề dày lịch sử vinh hoa. Nhưng khi cách mạng thắng lợi xuất sắc, nó đã giúp ông hiểu được sự sai lạc đáng tiếc của chính mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự chiến lược có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào, … lắm khu công trình không để đâu hết. Chính cái trường hợp chặt chẽ khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang đi toàn bộ nỗi niềm thương nhớ. chính vì như thế, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day ngừng khôn nguôi. Quả thật, cuộc sống và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi ” chôn rau cắt rốn ” của tớ trở thành một cổ xưa cuội nguồn và tâm ý chung của mọi người nông dân thời bấy giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn thuần, nhỏ : cây đa, giếng nước, sân đình … và nâng cấp lên đó chính là : tình yêu nước nhà. tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua : ” lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu đất nước ” .
xem thêm: những bước soạn giáo án điện tử violet | https://dichvubachkhoa.việt nam – Congnghenews
đoạn Clip bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Làng
Những ngày ở làng Thắng, ông Hai suốt cả ngày ra trụ sở để nghe ngóng tin tức về làng chợ Dầu và ông nghe tin cả làng ông Việt gian theo tây. Cổ ông lão ” nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân ” ông lão lặng đi, tưởng như không hề thở được. Ông cảm thấy đau đớn và nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quý của tớ theo giặc. Ông nguyền rủa lũ theo Tây : ” chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này “. Cũng chính từ lúc ấy, ông không dám đi đâu hết, suốt ngày ru rú trong nhà và nghe ngóng tin tức. Đến khi mụ chủ nhà đến báo không cho mái ấm gia đình ông ở nữa, ông thấy tuyệt đường sinh sống và ông nảy ra dự trù : ” hay là quay về làng ? ” nhưng rồi ý nghĩ đó lập tức bị ông lão phản đối ngay vì : ” làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù. ” Có thể nói với ông Hai, làng và nước giờ đây đã trở thành đối địch. Hai tình cảm này đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm trong tim ông. Nhưng trong đó, tình yêu quốc gia được ông Hai đặt lên trên hết. Phải thực sự am hiểu thâm thúy về con người, nhất là tâm lí của người dân thì Kim Lân mới miêu tả đúng tâm trạng nhân vật như vậy. trong mỗi ngày nay, nỗi niềm và tâm sự của ông được bộc lộ trong những lời chuyện trò của ông với đứa con út. trò chuyện với con như thể để thanh minh cho làng mình. Ông hỏi con : ” con ủng hộ ai ? ” Thằng bá giơ tay trẻ đẹp và tràn trề sức đề kháng và rành rọt : ” Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm “. Cái lòng của bố con ông là thế đấy ” chết thì chết có khi nào dám đơn sai “. Thế rồi, một tin kì cục đính chính rằng làng ông không áp theo giặc .
Những nỗi lo lắng, xấu hổ tan biến. Thay vào đó là nỗi sung sướng, phấn kích. Ông đi từ đầu làng đến cuối xóm khoe cái tin làng mình không tuân theo giặc, khoe cả cái việc nhà ông bị đốt cháy một cách vui mắt, hả hê : ” bác Thứ đâu rồi ! Bác Thứ làm gì đó ? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn ! ông quản trị làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết thêm … cái tin, cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo ! Láo hết ! toàn là sai sự kim chỉ nam cả ” Qua lời khoe của ông Hai, điều làm ta cảm động đó là ông không hề tiếc hay buồn khi ngôi nhà của ông bị đốt. Niềm vui vì làng không theo giặc đã choáng hết tâm lý ông. Mọi đau khổ, buồn tủi đã được rũ sạch. Quả thật, Kim Lân rất thành công xuất sắc trong những công việc khắc họa Hình ảnh của ông Hai, một trong người dân bấy giờ, đơn thuần, chất phác, tiêu biểu vượt trội cho những tầng lớp nông dân Nước Ta sau cách mạng tháng 8. Họ đã đặt tình yêu quốc gia lên trên tình yêu làng. Kim Lân ngay thậtnh công xuất sắc trong thẩm mỹ và nghệ thuật xây xựng truyện ngắn Làng, nhất là nghệ thật sử dụng ngôn từ nhân vật mà ông Hai là điển hình nổi bật. lời nói của ông hai đúng là lời nói của những người nông dân thời bấy giờ, kể cả những từ dung sai : ” bác Thứ đâu rồi … Láo ! Láo hết ! toàn là sai sự phương châm cả “. bên cạnh đó Kim Lân còn thành công xuất sắc trong công việc miêu tả tâm ý nhân vật. Diễn biến tâm ý của ông Hai từ đầu đến cuối truyện thật cảm động. Yêu làng đến nỗi đi đâu cũng khoe về làng. Khi biết làng bị tình nghi theo giặc thì ông đau khổ, tủi nhục, và khi biết làng mình không theo giặc, ông sung sướng, thậm chí còn còn khoe cả tin ngôi nhà của mình bị đố cháy một cách vui sướng, hả hê. xây đắp được những chi tiết cụ thể ấy, miêu tả sự tăng trưởng tâm ý nhân vật như vậy, Kim Lân đã chứng tỏ được tài nghệ của mình. Truyện ngắn Làng là một tác phẩm khá thành công xuất sắc khi viết về lòng yêu nước, yêu làng của người nông dân nước ta thời kháng chiến chống Pháp. Kim Lân đã bộc lộ được khả năng của mình qua tác phẩm này. Đọc truyện ngắn Làng giúp ta tưởng tượng được 1 thời kỳ chống Pháp sôi sục của nhân dân, mọi người một lòng theo Bác, theo Đảng khánh chiến đến cùng, có lẽ rằng vì vẫy mà đại chiến của ta đã dành được chiến thắng vẻ vang .
Source: https://trumgiadung.vn
Category : Điện Tử Bách Khoa
Thông tin liên hệ
- Địa chỉ: Tòa nhà 7A, Lê Đức Thọ, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội
- Điện thoại tư vấn: 0968.688.076 – 0769.159.159
- Email: trumgiadungvn@gmail.com
- website: https://trumgiadung.nước ta
- Máy giặt Hãng LG báo lỗi PF: 3 Lý Do & Cách Khắc Phục 2024
- Trung tâm Bảo hành Apple chính hãng tại việt nam 2024
- Cách làm bánh cuốn bằng nồi hơi truyền thống cho người mới làm lần đầu
- chỉ dẫn sử dụng Macbook Air M1 căn bản cho người mới 2024
- 3 loại máy bú cu rất giỏi giành cho cánh mày râu | SextoyUyTin | 2024