Xem Sơ đồ tư duy Bình Ngô đại cáo 2024
Sơ đồ tư duy bài Bình Ngô đại cáo
Sơ đồ tư duy bài Đại cáo bình Ngô
Sơ đồ tư duy Bình Ngô đại cáo trong content bài viết dưới đây của Hoatieu sẽ hỗ trợ Cả nhà bọn bọn chúng tac sinh hệ thống lại kiến thức về bài thơ Bình Ngô đại cáo ngắn gọn, dễ nhớ để phục vụ cho việc nghiên cứu và phân tích tác phẩm.
1. giới thiệu về tác phẩm Bình Ngô đại cáo
1. tình hình Ra đời và hoạt động
– sau khi quân ta đại thắng, bài trừ và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông buộc phải giảng hòa, rút quân về nước, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Đại cáo Bình Ngô.
Bạn đang đọc: Sơ đồ tư duy Bình Ngô đại cáo
– Đại cáo bình Ngô có ý nghĩa trọng đại như 1 bản tuyên ngôn độc lập, được công bố vào thánh Chạp, năm Đinh Mùi ( tức đầu năm 1428 )
2. Thể cáo
– Cáo là thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Đài Loan Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mỗi cá nhân cùng biết .
– Cáo trọn vẹn có thể viết bằng văn xuôi hay văn vần nhưng đa số được viết bằng văn biền ngẫu, có vần hoặc không có vần, thường có đối, câu dài ngắn không gò bó, mỗi cặp hai vế đối nhau .
– Lời lẽ đanh thép, lí luận sắc nhỏ nhắnn, cấu tạo hà khắc, mạch lạc .
3. Bố cục (4 phần)
– Phần 1 ( từ đầu đến “ chứng cớ còn ghi ” ) : Luận đề chính nghĩa ( Tiền đề lí luận )
– Phần 2 ( tiếp đó đến “ Ai bảo thần dân chịu được ” ) : bản cáo trạng hùng hồn, đẫm máu về tội ác của quân thù. ( Soi chiếu lí luận vào thực tiễn )
– Phần 3 ( tiếp đó đến “ Cũng là chưa thấy bấy lâu ” ) : phiên phiên phiên phiên bản hùng ca về cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn
– Phần 4 ( sót lại ) : Lời công bố độc lập
4. Giá trị content
Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập, qua đó vạch tội ác của quân thù xâm lược, ca tụng chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
5. Giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ và thẩm mỹ và thẩm mỹ và thẩm mỹ
– Lí luận chặt chẽ, hợp lý lời lẽ hùng hồn
– Sự kết hợp hòa giải giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương
– Sử dụng các chiêu trò nghệ thuật và thẩm mỹ : liệt kể, phóng đại, đối chiếu, trái chiều … .
2. Sơ đồ tư duy Bình Ngô đại cáo
Đề bài: “Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của kẻ thù xâm lược.
Sơ đồ tư duy bài Bình Ngô đại cáo
bài viết liên quan: quá trình soạn giáo án điện tử violet | https://dichvubachkhoa.việt nam – Congnghenews
Bài văn mẫu:
Nguyễn Trãi là một trong các số trong các trong danh nhân văn hoá quốc tế, một người toàn tài hiếm có trong lịch sử dân tộc nước ta. Ông đã bị gian thần trong triều đình hãm hại và cả dòng họ nhận án “ tru di tam tộc ” mặc dù đã cống hiến ít nhiều cho giang sơn. mặc dù, Nguyễn Trãi vẫn để lại cho nền văn chúng tac nước ta quá nhiều tác phẩm thơ văn có giá trị, mà điển hình khá khá trông nổi trội trong đó chính là áng “ thiên cổ hùng văn ” “ Bình Ngô đại cáo ”. Nhắc đến tác phẩm này, đã có 1 đánh giá và đánh giá và đánh giá như sau : “ “ Bình Ngô đại cáo ” ( Nguyễn Trãi ) là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của kẻ thù xâm lược. ” .
Trước hết, “ Bình Ngô đại cáo ” là một trong những những những trong trong mỗi phiên bản báo cáo giải trình, thông tin rộng thoải mái cho mỗi cá nhân về cuộc kháng chiến giành chiến thắng, giang sơn bước vào thời kì độc lập và nói về tương lai của giang sơn, như thế, đây là một phiên bản tuyên ngôn độc lập. Tác phẩm này được sáng tác Vào đầu năm 1428, sau thời điểm cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn diện và tổng thể thắng lợi, giang sơn ta dẹp trọn vẹn giặc Minh, Nguyễn Trãi thay vua Lê Lợi thảo bài “ Đại cáo bình Ngô ” để report giải trình cho toàn dân chúng trong lòng trạng háo hức sau 10 năm sống trong trận đánh tranh, khó khăn. ở bên cạnh đó, tác phẩm này là một trong trong các trong luận văn chính trị về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nêu các tâm lý mới lạ của Nguyễn Trãi, đồng thời biểu lộ tinh thần, tự hào vào tương lai đất nước. Trong bạn dạng cáo này, Nguyễn Trãi đã nêu ra bốn cảm xúc chính là cảm giác chính nghĩa, cảm hứng căm thù giặc, hiệu ứng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và cảm hứng độc lập, tương lai non sông. Ở đánh giá và đánh giá và nhận định này, họ nói về cảm hứng căm thù giặc, tức content phần hai của bài cáo : tố cáo tội ác của quân thù. Trước hết, nhận định và đánh giá này là 1 trong những những những trong nhận định và đánh giá đúng chuẩn. “ Bình Ngô đại cáo ” đúng là 1 trong phiên bạn dạng cáo trạng và nó rất đanh thép bởi lời thơ, giọng thơ hùng hồn, uy nghiêm. không chỉ có thế, tội ác của giặc đều được nêu ra trong một thái độ rất uất ức, căm hờn quân Minh hơn khi nào hết, cùng theo với sự cứng cỏi, nhất quyết, dứt khoát của tác giả trước tội ác của kẻ thù xâm lược .
Trong bản cáo trạng này, tội ác của quân Minh cùng theo với cảm hứng căm thù giặc đã được liệt kê vào phần thứ hai của tác phẩm. Ở phần này, tổng thể 24 câu thơ được chia làm 12 cặp biền ngẫu. Tội ác của giặc lần lượt được Nguyễn Trãi đưa ra trong mạch xúc tích và ngắn gọn chặt chẽ và nhà thơ đã vạch trần thủ đoạn xâm lược của chúng. Quân Minh đã nhân lúc họ Hồ gây “ chính sự phiền hà ” mà đã tích hợp với bọn Việt gian bán nước để xông vào cướp việt nam với phương án “ phù Trần diệt Hồ ” :
“ Nhân họ Hồ chính vì sự phiền hà ,
Để nội địa lòng dân oán hận .
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh. ”
Bằng từ “ nhân ” và “ thừa cơ ”, Nguyễn Trãi đã vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa, mượn gió bẻ măng của kẻ thù. không các thế, chúng còn gây ra bao tội ác lên đời sống của người dân suốt 20 năm ròng :
“ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống bên dưới hầm tai vạ.”
Trong hai câu thơ trên, Nguyễn Trãi đã sử dụng các vế đối rất chỉnh, câu văn mạch lạc, giọng văn đanh thép, phần nào miêu tả được lòng căm thù của Nguyễn Trãi thay cho trăm dân muôn họ. các lời thơ trên không chỉ là cách diễn tả cho bài văn cáo hay mà lật lại các trang sử sách của nước ta, quả đúng là như vậy. Quân Minh đã làm các việc độc ác, táng tận lương tâm như rút ruột người treo lên cây, lấy mỡ người để đốt lửa, thậm chí còn chúng còn mua vui bằng cáng đốt người dân trên ngọn lửa cháy hừng hực. Hai câu văn này cũng chan chứa các dòng lệ xót thương. Nguyễn Trãi đã khóc trước nỗi đau của người dân không có tội, căm uất tội ác của kẻ thù xâm lược. Không dừng lại ở đó, lũ giặc ác ôn còn đặt ra các thứ thuế, các việc làm cực khổ, bắt người dân phải phục dịch chúng :
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.”
Hai câu văn trên là hai câu văn rất dài, và ở đây Nguyễn Trãi cũng sử dụng thẩm mỹ và nghệ thuật liệt kê cùng theo với nghệ thuật và thẩm mỹ đối rất chỉnh khiến cho cho người nghe thấy rõ đời sống khổ sai của dân ta. các tội tác của giặc Minh gây ra bao hiểm họa cho đời sống con dân : “ Nheo nhóc thay kẻ goá bựa khốn cùng. ” và cả đời sống thiên nhiên và môi trường bao quanh đều bị huỷ hoại theo : “ Tàn hại cả giống côn trùng nhỏ cây cỏ, ”. Chúng còn vơ vét của cải của nhân dân : “ Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng ” … ngày hôm nay, Nguyễn Trãi đã lên án chủ trương quản lý của giặc Minh qua bản cáo trạng đơn cử, tổng lực với giọng văn anh dũng và mạnh mẽ, khơi gợi lòng căm hờn, muôn đời sau nguyền rủa tội ác của chúng. không dừng lại ở đó, lũ giặc Minh là một lũ tham lam, đã đòi ngọc, vàng mà bây giờ chúng còn đòi “ xây nhà, đắp đất ”, hành hạ người dân lành :
“Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.”
Lại một lần nữa, đây là hai câu thơ rất dài và được nhà thơ sử dụng nghệ thuật và thẩm mỹ tương phản cùng với mẹo nhỏ liệt kê. Một bên là chân dung của kẻ thù, một bên là nỗi thống khổ của dân cư. các vế đăng đối khiến quân Minh hiện lên như một lũ khát máu. Hơn nữa, động từ “ nhe răng ”, “ há miệng ” và từ “ máu mỡ ” cho biết chúng chẳng khác nào một lũ quỷ. Chúng bắt dân ta phải phục dịch, bắt xây nhà, dinh thự, coi dân ta như con sâu, con kiến, như cỏ rác vậy. Tội ác của giặc Minh khiến chặt cả rừng tre cũng không ghi hết tội. Đau đớn, uất ức thay, Nguyễn Trãi phải cất lên rằng :
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?”
Đây phải chăng là những câu cảm thán, những câu thốt lên của Nguyễn Trãi thay cho trăm dân muôn họ, những con dân nước Nam đã bị quân Minh hành hạ, sống không bằng chết. Sự gian ác của chúng khiến chặt cả rừng cây trên núi Nam cũng không kể xiết những tội ác tày trời, mặc dầu nước Đông Hải bao nhiêu năm vẫn chảy mà vẫn không rửa sạch mùi. Bằng thẩm mỹ và nghệ thuật điệp cấu trúc, phóng đại phối hợp câu hỏi tu từ, những câu văn ở cuối phần hai giàu tính hình tượng, những Hình ảnh vạn vật thiên nhiên kì vĩ giúp Nguyễn Trãi biểu lộ thái độ phẫn nộ trước tội ác của quân địch. Trời đất không dung tha, cả thần dân không chịu được. Chính sự căm thù, ghê tởm, khinh bỉ tột độ này khiến nhân dân ta không hề đứng nhìn căm chịu mà phải biết đứng lên mà chiến đấu .
Trong phần hai của tác phẩm, nội dung của nó phần lớn là để kể tội quân Minh, rằng những việc làm đó là sai lầm, và đó cũng là căn nguyên cho cảm hứng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở phần sau của tác phẩm. Trong phần hai này, nghệ thuật và thẩm mỹ đa phần mà Nguyễn Trãi sử dụng chính là thẩm mỹ và nghệ thuật đối. cạnh bên đó còn điển hình điển hình lên thẩm mỹ và nghệ thuật viết cáo của ông. Nguyễn Trãi đã thiết kế thi công chiến thắng xuất sắc chân dung của quân địch qua bút pháp đối cùng với giọng điệu căm thù, uất ức. lân cận đó, còn có những chiêu trò khác là cách đối chiếu với những hình ảnh vạn vật thiên nhiên kì vĩ, hòn đảo ngữ, liệt kê cùng giọng điệu đanh thép hào hùng và đó cũng là để chê bài thói xấu, tội ác của quân Minh đã gây lên cho bao người dân Việt. Qua cách sử dụng những thẩm mỹ và nghệ thuật trên, “ Bình Ngô đại cáo ” hiện lên đúng là một bản cáo trạng đanh thép về tội ác của quân địch xâm lược mà đơn cử ở đây là giặc Minh. Xen kẽ vào từng câu văn, nước mắt và lòng yêu thương dân tộc bản địa của Ức Trai đã được đưa vào 1 cách khéo léo. Từ đó tất cả bọn họ thấy được giá trị nhân đạo của đoạn trích cũng như cả tác phẩm .
Đặt “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi so sánh với hai bản tuyên ngôn còn sót lại của Việt Nam, lần lượt là “Nam quốc sơn hà” và “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ quản trị, thứ nhất là những điểm giống nhau. Cả ba tác tác phẩm này đều cam đoan độc lập, quyền độc lập hòa bình của dân tộc, đất nước Việt Nam, biểu hiện tình yêu quê nhà, đất nước, đồng bào tha thiết và đặc biệt, họ luôn luôn luôn nhớ tố cáo những tội ác của giặc, vạch trần bộ mặt gian xảo của chúng, đồng thời ca ngợi, tôn vinh đất nước, con người Việt Nam. Do ba bản tuyên ngôn này Ra đời và hoạt động ở ba hoàn cảnh khác biệt nên chúng hướng về những đối tượng cụ thể khác biệt. Hơn nữa, cách chứng minh độc lập của “Bình Ngô đại cáo” dựa trên nhiều phương diện hơn so với hai bản tuyên ngôn còn lại. Đặc biệt, bản tuyên ngôn thứ hai của đất nước “Bình ngô đại cáo” nổi bật hơn hẳn ở phần tố cáo tội ác của giặc. Cách nói ở “Nam quốc sơn hà” thì ngắn gọn, cô đọng, ở “Tuyên ngôn độc lập” của Bác thì văn phong đĩnh đạc, giàu tính luận chiến. Riêng bài cáo của Nguyễn Trãi lại là tác phẩm mang tính phơi bày tội ác của kẻ thù nhiều hơn,tính chất kể nể tự tụ nhiều hơn và cũng chính phần tố cáo tội ác này là nội dung cần thiết, đóng đóng góp phần không nhỏ vào sự thành công của bài cáo.
tham khảo: Cách tạo chữ ký điện tử online chỉ từ vài bước cực kỳ nhanh cho chính mình
Đây quả là một tác phẩm chứa nội dung lớn với cùng 1 tư tưởng cao đẹp. “ Bình ngô đại cáo ” xứng danh là một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc bản địa ta. Với hình ảnh những tầng lớp, giọng văn hoạt bát cùng với những cung bậc cảm xúc khác biệt, tác phẩm này thật xứng danh áng “ thiên cổ hùng văn ” lưu giữ cho muôn đời .
Mời Anh chị bài viết liên quan những thông tin hữu dụng khác trên chuyên mục Văn chúng tac – Tài liệu của Thiquocgia.nước ta.
bài viết liên quan
Source: https://trumgiadung.vn
Category : Điện Tử Bách Khoa
Thông tin liên hệ
- Địa chỉ: Tòa nhà 7A, Lê Đức Thọ, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội
- đường dây nóng: 0968.688.076 – 0769.159.159
- Email: trumgiadungvn@gmail.com
- website: https://trumgiadung.việt nam